Tin tức
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

TRUNG TÂM Y TẾ ĐÔNG HẢI TỔ CHỨC NÓI CHUYỆN CHUYÊN ĐỀ VỀ ĐỀ ÁN MẤT CÂN BẰNG GIỚI TÍNH KHI SINH.

Hiện nay, việc mất cân bằng giới tính khi sinh đã và đang trở thành một trong những vấn đề “nóng” và nan giải đối với công tác Dân số - Kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ), thu hút sự quan tâm của cộng đồng.

Nhằm trang bị những kỷ năng, kiến thức cơ bản trong việc truyền thông tư vấn, truyền thông chuyển đổi hành vi về nguyên nhân, hậu quả của mất cân bằng giới tính khi sinh và phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật về nghiêm cấm tuyên truyền, phổ biến chuẩn đoán giới tính thai nhi. Phổ biến các văn bản về bình đẳng giới, các quy định của pháp luật về nghiêm cấm lựa chọn giới tính thai nhi.

Thực hiện theo kế hoạch của Chi cục DS – KHHGĐ tỉnh Bạc Liêu về tổ chức các buôi nói chuyện chuyên đề về Đề án Mất cân bằng giới tính khi sinh trong toàn huyện Đông Hải. Phòng DS-TT&GDSK đã tổ chức thành công với sự góp mặt của hơn 330 đối tượng là chị e phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ, cộng tác viên Dân số - Y tế, các ban ngành đoàn thể xã, ấp…

Cử nhân Đinh Thị Nghiên phụ trách các buổi nói chuyện chuyên đề với các nội dung như sau:

Thực trạng

Mất cân bằng giới tính khi sinh là số trẻ nam sinh ra còn sống cao hơn hoặc thấp hơn ngưỡng bình thường so với 100 trẻ nữ. Mất cân bằng giới tính khi sinh  xảy ra khi tỷ số giới tính nam khi sinh lớn hơn 106 hoặc nhỏ hơn 103 so với 100 trẻ nữ.

Theo số liệu thống kê của Tổng cục DS-KHHGĐ (thuộc Bộ Y tế) ghi nhận cuối năm 2019, tỷ số giới tính khi sinh ở Việt Nam hiện dao động quanh ngưỡng 114,8 bé trai/100 bé gái. Điều đáng lo là tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh vẫn có xu hướng gia tăng ở cả nông thôn và thành thị.

Nếu không có những biện pháp can thiệp kịp thời, dự báo đến năm 2050, Việt Nam sẽ thiếu 2,3 - 4,3 triệu phụ nữ. Mất cân bằng giới tính có thể gây ra các hậu quả nghiêm trọng đối với phát triển kinh tế xã hội và ảnh hưởng đến cả cộng đồng; có thể “buộc” các em gái phải kết hôn sớm, làm tăng tệ nạn mại dâm, HIV/AIDS, nạn buôn bán phụ nữ, trẻ em gái và các hình thức bạo lực gia đình đối với phụ nữ và trẻ em gái, gây bất ổn xã hội, suy giảm sức khỏe, đặc biệt là sức khỏe sinh sản và tình dục ở nam giới…

Kết quả các nghiên cứu ban đầu ở Việt Nam cho thấy, có ba nhóm nguyên nhân dẫn tới tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh như sau:

Nhóm nguyên nhân cơ bản

Việt Nam là một quốc gia châu Á có nền văn hoá truyền thống, trong đó tư tưởng Nho giáo đóng vai trò chủ đạo. Tâm lý ưa thích con trai ăn sâu trong tâm thức nhiều người và trở thành một phần của nền văn hoá truyền thống Việt Nam. Ưa chuộng con trai chính là nguyên nhân gốc rễ của hiện tượng mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam. ‘Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô’. Con trai là con của mình, con gái là con người ta.

Mong có con trai để nói dõi tông đường vì con sinh ra theo họ cha, mong có con trai để đảm đương việc tờ cúng tổ tiên.

Nhóm nguyên nhân phụ trợ:

Hệ thống an sinh xã hội cho người cao tuổi chưa phát triển. Ở các khu vực nông thôn, nhiều người già không có lương hưu, hay trợ cấp xã hội, họ cần sự chăm sóc về y tế. Tất cả phụ thuộc vào khả năng phụng dưỡng của con cái, mà theo quan niệm của gia đình truyền thống, trách nhiệm đó chủ yếu thuộc về con trai. Người già vì thế sẽ cảm thấy lo lắng cho tương lai và bất an khi về già nếu không có con trai.

Do nhu cầu phát triển kinh tế hộ gia đình. Ở nhiều vùng nông thôn, các công việc nặng nhọc đều đòi hỏi sức lao động cơ bắp của nam giới. Chính vì vậy, con trai vừa là trụ cột về tinh thần, vừa là trụ cột về kinh tế cho cả gia đình.

Những chính sách giải quyết các vấn đề liên quan đến bất bình đẳng giới chưa thật thỏa đáng cũng góp phần thúc đẩy một số phụ nữ chủ động tìm kiếm các dịch vụ lựa chọn giới tính trước sinh.

Những chuẩn mực xã hội mới như gia đình qui mô nhỏ mỗi cặp vợ chồng chỉ sinh  đủ 2 con cũng tạo áp lực giảm sinh. Trong khi đó, các cặp vợ chồng vừa mong muốn có ít con, lại mong muốn trong số đó phải có con trai. Đây là động lực khiến các cặp vợ chồng tìm kiếm và sử dụng các dịch vụ lựa chọn giới tính trước sinh.

Nhóm nguyên nhân trực tiếp: 

Lạm dụng những tiến bộ khoa học công nghệ để thực hiện lựa chọn giới tính trước lúc có thai là (chế độ ăn uống, chọn ngày phóng noãn, có que thử ngày trứng rụng…); trong lúc thụ thai (chọn thời điểm phóng noãn, chọn phương pháp thụ tinh, lọc rửa tinh trùng để chọn tinh trùng mang nhiễm sắc thể Y….) và áp dụng một số kỹ thuật sau khi đã có thai (sử dụng siêu âm, chọc hút dịch ối, xét nghiệm máu mẹ…) để chẩn đoán giới tính thai nhi, kết hợp với phá thai chọn lọc giới tính (nếu là thai trai thì để lại, nếu là thai gái thì bỏ đi).

Các văn bản quy phạp pháp luật liên quan đến việc nghiêm cấm lựa chọn giới tính khi sinh như:

Năm 2003, Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa XI đã ban hành Pháp lệnh Dân số; Chính phủ ban hành Nghị định số 104/2003/NĐ-CP ngày 16 tháng 9 năm 2003 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Dân số; Nghị định 114/2006/NĐ-CP ngày 03 tháng 10 năm 2006 quy định xử phạt vi phạm hành chính về dân số và trẻ em, Quốc hội cũng đã ban hành Luật Bình đẳng giới ngày 29 tháng 11 năm 2006; Chính phủ ban hành Chiến lược quốc gia về Bình đẳng giới giai đoạn 2011 – 2020 đều đã quy định nghiêm cấm các hành vi lựa chọn giới tính thai nhi. Bộ Y tế đã ban hành văn bản số 3121/BYT-BMTE ngày 21 tháng 5 năm 2009 về việc nghiêm cấm lạm dụng kỹ thuật cao để lựa chọn giới tính thai nhi; hàng năm đều có hướng dẫn các quy định về nghiêm cấm các hành vi lựa chọn giới tính thai nhi và can thiệp để làm giảm tình trạng MCBGTKS.

Tuy nhiên việc thực hiện các quy định này chưa nghiêm. Nên sinh ra rất nhiều hệ lụy của mất cân bằng giới tính khi sinh:

Do nhu cầu phải có con trai nên sẽ làm tình trạng tăng dân số tự nhiên quá nhanh tại một số nơi dẫn đến thừa lao động,  điều này dẫn đến việc di cư từ nông thôn ra các tỉnh và thành phố lớn tìm việc làm.

Nếu tình trạng thừa nam thiếu nữ diễn ra như dự kiến thì 20 đến 30 năm nữa có khoản 2 đến 3 triệu nam sẽ không lấy được vợ.   Nam giới khó kết hôn, kết hôn muộn, thậm chí là không thể kết hôn do không tìm được bạn đời. Có thể  dẫn đến trẻ em gái phải kết hôn sớm gây ra việc tào hôn hoặc hôn nhân cận huyết thống;

Nam giới đến tuổi kết hôn nhưng không lấy được vợ vì thiếu phụ nữ, dễ dẫn đến gia tăng tội phạm về tình dục, lừa đảo, bắt cóc, buôn bán phụ nữ; tăng tệ nạn mại dâm, hiếp dâm phụ nữ… tăng nguy cơ lây nhiễm HIV và các bệnh xã hội, gây bất ổn về chính trị, kinh tế và xã hội.

Ngoài ra, do gia đình nhà chồng hoặc người chồng muốn có con trai, khi người vợ không sinh được con trai theo ý muốn, người chồng bỏ rơi hoặc ly dị vợ; gia đình chồng ép người chồng bỏ rơi vợ, hay cặp vợ chồng đẻ được con gái, cho con gái đi làm con nuôi…..

Do phụ nữ phải sinh đẻ nhiều lần hoặc nạo phá thai thường xuyên để tìm con trai ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe sinh sản của mình như có thể bị viêm nhiễm phụ khoa, vô sinh hoặc ung thư tử cung.

Nam giới dư thừa nhưng không thể bổ sung vào các ngành nghề vốn là đặc thù dành cho phụ nữ như: hộ lý, hộ sinh, giữ trẻ, giáo viên mầm non, giúp việc nhà, thợ dệt….

Các biện pháp hạn chế:

Không lựa chọn giới tính thai nhi dười mọi hình thức. Hãy để việc sinh đẻ theo quy luật tự nhiên.

Không phá thai vì lý do thai nhi đó là con gái hay con trai.

Phá thai vì lý do giới tính sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.

Tuyên truyền về hậu quả của việc lựa chọn giới tính khi mang thai.

Các hoạt động tại các ấp:

Gặp gở các cặp vợ chồng có nguy cơ cao tìm hiểu và vận động trực tiếp.

Tổ chức các buổi tư vấn nhóm nhỏ HOẶC LỒNG GHÉP VÀO CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA ẤP. MỖI CỘNG TÁC VIÊN LÀ MỘT TUYÊN TRUYỀN VIÊN TÍCH CỰC NHẰM tuyên truyền về hậu quả của mất cân bằng giới tính khi sinh để mổi người dân nhận thức được HẬU QUẢ CỦA MẤT CÂN BĂNG GIỚI TÍNH KHI SINH và không lựa chọn giới tính khi mang thai.

 

CN. Đinh Nghiêm, Phòng DS – TT&GDSK, TTYT Đông Hải

 


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết